Bài đăng nổi bật

Giới Thiệu

Hiện tại mình có kế hoạch hệ thống lại kiến thức mà mình đã học được trong quá trình làm việc để chia sẽ cùng mọi người, các bài đăng tiếp...

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2020

Giá dầu có thể đạt 70 USD/thùng vào mùa thu 2020











Giám đốc điều hành của Canary Drilling Services, Dan Eberhart mới đây nói với tờ Markets Insider rằng, giá dầu thô WTI có thể tăng 90% lên 70 USD/thùng vào mùa thu năm nay vì các nhà sản xuất dầu Mỹ có thể đã cắt giảm sản xuất quá mức.
Theo ông Eberhart, các công ty dầu khí Mỹ đã tiến hành hạn chế sản xuất quá nhanh và quá nhiều khi giá  dầu sụp đổ. Điều này tạo tiền đề cho một "cú sốc nguồn cung nhỏ" trên thị trường dầu mỏ Mỹ.
Mở đầu phiên giao dịch ngày thứ Sáu, giá dầu thô WTI đã tăng 4,38% lên 39,05 USD/thùng, do thị trường có vẻ tin tưởng rằng nhóm OPEC + sẽ duy trì mức cắt giảm hiện nay thêm một tháng.
Ông Eberhart cho rằng, việc gia hạn sẽ không có vấn đề gì nhiều vì sự tuân thủ của OPEC sẽ đi xa hơn nữa.
"Tôi nhận thấy có một trường hợp để dầu WTI có thể đạt mức 70 USD/thùng vào mùa thu này, ông Eberhart cho hay.
Tuy nhiên, việc khôi phục sản xuất trong bối cảnh giá dầu tăng, có thể đe dọa đà tăng giá dầu. Một ẩn số lớn khác cho thị trường dầu trong mùa hè này là nhu cầu.
Nhu cầu dầu toàn cầu đã được cải thiện trong vài tuần qua, dẫn đầu là nhu cầu của Trung Quốc đã phục hồi 90% về mức trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát, trong khi các dấu hiệu cải thiện tạm thời ​​xuất hiện ở các nền kinh tế lớn khác như Mỹ và Ấn Độ, do lệnh phong tỏa được nới lỏng.
Câu hỏi được đặt ra lúc này là làm cách nào để phục hồi nhanh chóng nhu cầu về mức trước khủng hoảng, trong khi, một số nhà phân tích nói rằng điều này là không bao giờ.
Tại Mỹ, nhu cầu xăng đang dần hồi phục và đẩy giá xăng trung bình toàn quốc lên cao hơn. Kể từ thứ Hai, giá trung bình cho một gallon xăng tại Mỹ đã tăng hai cent lên 1,99 USD - cao hơn ba cent so với một tuần trước và nhiều hơn 21 cent so với một tháng trước, theo AAA.
Tuần trước, nhu cầu xăng tại Mỹ đã tăng lên 7,5 triệu thùng/ngày từ mức 7,3 triệu thùng/ngày của tuần trước đó, theo dữ liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA).

Oilprice

Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2020

Bản Tin - Lao Động - Nghị định 58/2020/NĐ-CP của Chính phủ

Nghị định 58/2020/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp



Ngày 27/05/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định 58/2020/NĐ-CP về việc quy định mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Theo đó, mức đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) cho người lao động vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bình thường là 0,5% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH (áp dụng đối với cả công chức, viên chức lực lượng vũ trang thuộc các cơ quan Đảng, Nhà nước...). Trong trường hợp doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đáp ứng các điều kiện theo quy định thì có để áp dụng mức đóng thấp hơn là 0,3% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. Theo đó, doanh nghiệp được phép áp dụng mức đóng BHXH thấp hơn mức đóng bình thường nếu trong 03 năm liền trước năm đề xuất: không bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động, BHXH; báo cáo định kỳ tai nạn lao động, an toàn, vệ sinh lao động, chính xác, đầy đủ, đúng hạn và có tần suất tai nạn lao động giảm từ 15% trở lên so với trung bình của 03 năm liền trước năm đề xuất.
Mức đóng thấp hơn mức quy định được thực hiện trong vòng 36 tháng, kể từ ngày quyết định áp dụng mức đóng có hiệu lực. Nếu người sử dụng lao động vẫn có nhu cầu tiếp tục đóng mức thấp hơn mức đóng bình thường vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì phải lập hồ sơ đề xuất theo quy định và gửi trước khi hết hạn 60 ngày.

Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 15/07/2020 và làm hết hiệu lực Nghị định 44/2017/NĐ-CP.

PV GAS hướng đến hội nhập quốc tế trong lĩnh vực LNG

Xác định quan điểm chủ đạo: Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu trong lĩnh vực năng lượng, công tác phát triển LNG là một trong những cánh cửa bước ra thế giới, Tổng công ty Khí Việt Nam (PV GAS) tích cực bước vào công cuộc phát triển thị trường khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) với tâm thế của người tiên phong đầy tự tin, xứng đáng với vai trò chủ đạo, dẫn dắt trong ngành công nghiệp Khí Việt Nam.

Xu hướng của ngành công nghiệp khí

Nghị quyết 55-NQ/TW được Bộ Chính trị phê duyệt ngày 11/02/2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng Quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đặt ra mục tiêu cụ thể đối với ngành công nghiệp Khí là đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) khoảng 8 tỷ m3 vào năm 2030 và khoảng 15 tỷ m3 vào năm 2045, đồng thời chỉ ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu có liên quan đến ngành công nghiệp khí Việt Nam như: Ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ LNG; phát triển nhanh nhiệt điện khí sử dụng LNG; chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng xuất, nhập khẩu năng lượng, kết nối khu vực; đẩy mạnh hợp tác quốc tế…
Quyết định 60/QĐ-TTg được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 16/01/2017 về quy hoạch phát triển ngành công nghiệp Khí Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035 cũng đã xác định rõ quan điểm là: Đẩy mạnh hợp tác quốc tế; triển khai nhập khẩu LNG; hội nhập với thị trường khí trong khu vực, thế giới; nghiên cứu, tìm kiếm thị trường và đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kho cảng để sẵn sàng tiếp nhận, nhập khẩu LNG với mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn; hình thành và triển khai các dự án hợp tác sản xuất LNG ở nước ngoài, vận chuyển và phân phối tại Việt Nam.

Lễ khởi công Dự án kho cảng LNG Thị Vải vào năm 2019.
Kế hoạch 5 năm 2020-2025 và Chiến lược phát triển PV GAS đến năm 2025, định hướng đến năm 2035 của PV GAS trình Tập đoàn Dầu khí Việt Nam phê duyệt cũng xác định rõ quan điểm phát triển là “nguồn LNG nhập khẩu là nguồn khí chính đảm bảo sự phát triển bền vững của PV GAS, của ngành công nghiệp Khí Việt Nam”; tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển PV GAS ngày càng lớn mạnh trên thị trường trong nước và quốc tế; tham gia tích cực thị trường ngành khí quốc tế.
Có thể thấy rằng Nghị quyết 55, Quyết định 60 và Chiến lược phát triển của PV GAS đều đã xác định rất rõ công tác nhập khẩu và phát triển LNG là một trong những giải pháp phát triển năng lượng bền vững của quốc gia, bù đắp cho các nguồn nhiên liệu sơ cấp trong nước dần suy giảm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội cho giai đoạn mới, trong bối cảnh nhu cầu năng lượng Việt Nam đang tăng cao.
Theo đánh giá của Hiệp hội khí thế giới, thị trường LNG toàn cầu đang dần trở thành một thị trường hàng hóa có tính thương mại cao được củng cố bằng sự tăng trưởng mạnh trong cung - cầu, mức độ đầu tư cho hạ tầng xuất nhập khẩu LNG, sự hình thành các trung tâm lớn (hub) nhập khẩu/phân phối LNG, sự phát triển khoa học, công nghệ trong chuỗi LNG, khuynh hướng dịch chuyển giá LNG neo theo giá dầu sang giá hub, tính đa dạng cao của các thỏa thuận thương mại. Thương mại quốc tế khí tự nhiên hóa lỏng LNG tiếp tục là một trong những phân khúc sôi động và phát triển mạnh mẽ trong chuỗi giá trị khí tự nhiên toàn cầu.
Thực tế cho thấy, các nước phát triển trong khu vực như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan đã nhận thấy vai trò tích cực của LNG trong việc cung ứng nguồn năng lượng cho quốc gia và đã bắt đầu phát triển hạ tầng, nhập khẩu từ nhiều năm trước. Hiện nay các quốc gia này, ngoài việc đảm bảo nhu cầu năng lượng nội địa từ nguồn LNG nhập khẩu, còn đóng góp rất tích cực với vai trò là nhà cung cấp LNG cho các nước lân cận, hình thành các trung tâm xuất nhập khẩu LNG khu vực, góp phần rất quan trọng định hình chuỗi giá trị LNG khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
PV GAS - Vươn tầm cao mới
Với định hướng hội nhập quốc tế, vươn tầm cao mới, PV GAS xác định qua cánh cửa LNG, Tổng công ty sẽ có điều kiện tiếp cận, tiếp thu có chọn lọc và áp dụng kiến thức, kinh nghiệm, thông lệ quốc tế liên quan đến chuỗi giá trị LNG toàn cầu, bao gồm các mảng đa dạng về chính sách pháp luật, đầu tư hạ tầng, tài chính, thương mại, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực.
Ngoài ra, thông qua mối liên kết với chuỗi giá trị LNG toàn cầu, PV GAS có cơ hội tiếp cận các thời cơ, cũng như nắm bắt kịp thời các rủi ro của thị trường toàn cầu, thực hành, va chạm, tích lũy năng lực, kinh nghiệm, dần bước chân vào môi trường kinh doanh quốc tế đầy năng động và chuyên nghiệp.
Tổng giám đốc PV GAS dẫn đầu đoàn công tác đến thăm công trình kho cảng LNG Thị Vải.

Năm 2019, PV GAS đã khởi công xây dựng Dự án kho cảng LNG Thị Vải với công suất qua kho (giai đoạn 1) là 1 triệu tấn LNG/năm, dự kiến hoàn thành năm 2022; giai đoạn 2 với công suất 3 triệu tấn LNG/năm, dự kiến hoàn thành năm 2023.
Sau khi hoàn thành sẽ bổ sung nguồn cung khoảng 1,4 tỉ m3 khí cấp cho các khách hàng tiêu thụ gồm: Nhà máy Điện Nhơn Trạch 3 và 4, các khách hàng công nghiệp, bù đắp một phần lượng khí thiếu hụt trong nước sau năm 2022.
Cùng với kho cảng nhập khẩu LNG Sơn Mỹ với tổng công suất dự kiến khi hoàn thành lên đến 10 triệu tấn LNG/năm, nhu cầu năng lượng cho khu vực Nam bộ trong tương lai về cơ bản sẽ được đáp ứng.
Bên cạnh đó, để chuẩn bị nguồn LNG khi có nhu cầu trong nước, PV GAS cũng đã ký kết hợp đồng khung mua bán LNG (MSA - Master Sales Agreement) với hai nhà cung cấp: Shell Singapore và Gazprom Marketing and Trading Singapore (GMTS) để có thể cung cấp các chuyến hàng LNG giao ngay khi PV GAS có nhu cầu.
Với các hợp đồng MSA, PV GAS có thể linh hoạt bổ sung thêm nguồn hàng LNG khi có nhu cầu thông qua việc phát yêu cầu chào mua đến các nhà cung cấp LNG.
Ghi nhận thông qua thống kê các giao dịch mua bán LNG giao ngay và ngắn hạn trong vòng 5 năm qua cho thấy tổng khối lượng LNG giao dịch thông qua hình thức MSA tăng dần hàng năm và hiện đang chiếm tỷ trọng 30% tổng khối lượng LNG giao dịch trên thị trường.
Do vậy, trong thời gian tới, PV GAS sẽ tiếp tục ký kết các hợp đồng MSA với các nhà cung cấp LNG tăng số lượng lên từ 20-30 MSA để tăng tính cạnh tranh và linh hoạt trong việc thu xếp các chuyến hàng giao ngay.
Cuối năm 2019, PV GAS cũng đã thành lập Chi nhánh kinh doanh LNG với chức năng phân phối và kinh doanh các sản phẩm khí khô, LNG, condensate; xuất nhập khẩu LNG, condensate; kinh doanh dịch vụ vận chuyển các sản phẩm khí; thu gom, vận chuyển, tàng trữ khí và sản phẩm khí;… nhằm tập trung xây dựng năng lực và phát triển thị trường LNG.
Phát triển lĩnh vực LNG được xác định là xu hướng tất yếu của Việt Nam để đa dạng hoá nguồn nguyên liệu, đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế đất nước ngày càng tăng cao, trong khi sản lượng khí khai thác trong nước đang suy giảm và hoạt động thăm dò, tìm kiếm các nguồn dầu khí thay thế gặp nhiều khó khăn.
Trong tình hình đó, với vai trò chủ đạo trong ngành công nghiệp khí, PV GAS đã có những bước đi tiên phong, tích cực trong lĩnh vực LNG ở nước ta, nhằm tạo ra năng lực sản xuất mới, nâng tầm vị thế PV GAS trong ngành năng lượng Việt Nam cũng như ngành công nghiệp khí thế giới, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia./.

Theo TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

 


Sự hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông, đối đầu Mỹ-Trung và ứng phó của Moscow

Báo Nga: Sự hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông, đối đầu Mỹ-Trung và ứng phó của Moscow
 
Với nhan đề 'Biển Đông dậy sóng vì Covid-19', bài viết trên Infox.ru nói về khả năng xung đột Mỹ-Trung ở Biển Đông và sự lựa chọn của Nga.
Trong khi cả thế giới đang chống chọi với đại dịch thì Trung Quốc lại gia tăng các hành động ở Biển Đông. Ở đây, Bắc Kinh đang kết hợp giữa hành động quân sự, chính trị và việc gây sức ép lên các nước láng giềng. Nếu đạt được mục đích thì trong tương lai không xa, Trung Quốc có thể làm thay đổi toàn bộ môi trường địa chính trị ở khu vực Đông Nam Á.
Sự ngang ngược phi lý của Trung Quốc
Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền đối với 80% diện tích Biển Đông, tương đương hơn 2,2 triệu km2, hoàn toàn phớt lờ lợi ích của các quốc gia láng giềng trong khu vực. Không chỉ giàu tài nguyên thiên nhiên, Biển Đông còn là một trong những tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới; hàng năm, giá trị hàng hóa được vận chuyển qua vùng biển này lên tới 3.400 tỷ USD.
Ngoài việc nhắm tới các mục tiêu chiến lược quân sự thuần túy, Trung Quốc còn có tham vọng kiểm soát tuyến hàng hải với các dòng chảy thương mại phục vụ cho không chỉ chính Trung Quốc mà còn các quốc gia Đông Á khác như Nhật Bản và Hàn Quốc, cũng như khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Những yêu sách của Bắc Kinh đối với Biển Đông không phù hợp với các chuẩn mực của luật pháp quốc tế, trước hết là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 được chính Trung Quốc phê chuẩn năm 1996, cũng như phán quyết của Tòa trọng tài khẳng định rằng Trung Quốc không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào đối với những tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Tuy nhiên, trong mùa Xuân năm 2020, Bắc Kinh đã tiếp tục gây sức ép đối với các quốc gia láng giềng cũng có tuyên bố chủ quyền ở vùng biển này, trong đó có Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia.
Giữa tháng 4/2020, Trung Quốc đã tuyên bố thành lập hai đơn vị hành chính trên vùng biển Nam Trung Hoa, một trên quần đảo Trường Sa và một trên quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc cũng đặt tên cho 25 đảo, rạn san hô và đá ngầm, gồm cả đảo nhân tạo mà họ xây dựng, và 55 cấu trúc địa hình khác dưới mặt biển.
Những việc này liên tiếp diễn ra trong bối cảnh Mỹ - quốc gia ủng hộ các nước nhỏ ở Đông Nam Á có mâu thuẫn với Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông – rút tàu sân bay Theodore Roosevelt lớn nhất của họ khỏi khu vực sau khi phát hiện có virus SARS-CoV-2 lây lan trên con tàu này.
Cũng trong thời gian này, Trung Quốc tiếp tục sử dụng các tàu chiến của Quân giải phóng nhân dân cũng như lực lượng Cảnh sát biển để gây sức ép đối với các quốc gia trong khu vực. Họ công khai treo cờ Trung Quốc ở các vùng biển mà Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia tuyên bố chủ quyền.
Chẳng hạn, đầu tháng 4/2020, một tàu cảnh sát biển Trung Quốc đã đâm chìm tàu cá Việt Nam và bắt giữ 8 người trên tàu. Tuy nhiên, Bắc Kinh không dừng lại ở việc sử dụng các biện pháp quân sự. Chẳng hạn, tàu cá Trung Quốc còn tiến hành đánh bắt cá trái phép gần quần đảo Natuna ở cực Nam Biển Đông, vốn thuộc về Indonesia và cách lãnh thổ Trung Quốc hàng nghìn kilomet.
Ngoài ra, Trung Quốc còn sử dụng mọi phương thức để ngăn chặn việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên ở vùng đặc quyền kinh tế của nước khác. Chẳng hạn, vào trung tuần tháng 5/2020, dưới sức ép của các tàu Trung Quốc, một tàu nghiên cứu hoạt động theo hợp đồng ký kết với tập đoàn dầu khí Petronas của Malaysia đã buộc phải rời khỏi khu vực thăm dò dầu khí ở Biển Đông.
Bằng những hành động của mình, Bắc Kinh đang thách thức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) - tổ chức gồm 10 quốc gia Đông Nam Á, trong đó nhiều nước không hài lòng với cách hành xử của Trung Quốc ở Biển Đông. Tổ chức này có thể trở thành nền tảng để chống lại những đòi hỏi không phù hợp với luật pháp quốc tế của quốc gia láng giềng phía Bắc.
Trên cương vị Chủ tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam đóng vai trò đặc biệt trong xu thế này. Việt Nam đã có phản ứng công khai đối với mỗi hành động đơn phương và hung hăng gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông. Việt Nam cũng nhận được sự ủng hộ tích cực từ phía Philippines và Indonesia. Đầu tháng 4/2020, Manila bày tỏ sự đoàn kết với nước láng giềng của mình ở Biển Đông sau khi lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc đâm chìm tàu cá của Việt Nam.
Đầu tháng 5/2020, Indonesia bày tỏ quan ngại về những hành động gần đây ở Biển Đông. Bộ trưởng Ngoại giao Retno Marsudi tuyên bố: “Indonesia quan ngại trước những hành động ở Biển Đông mà có thể thúc đẩy thêm căng thẳng trong bối cảnh thế giới đang chống chọi với đại dịch Covid-19”.
Những kịch bản xấu và tiền đề cho sự leo thang của đối đầu Mỹ-Trung
Có thể nói cuộc khủng hoảng Covid-19 là phản ứng hỗn loạn của thế giới trước một đại dịch toàn cầu, và để thoát khỏi nó, thế giới còn phải vượt qua một chặng đường dài đầy khó khăn. Nhưng còn một thực tế khác đã và đang diễn ra, đó là một nửa dân số thế giới rơi vào tình trạng phong tỏa, trong khi các nền kinh tế hàng đầu thế giới bắt đầu suy sụp.
Không có đầu tàu dẫn dắt thế giới thoát khỏi cuộc khủng hoảng mới, mỗi quốc gia chọn cho mình cách hành động riêng để thoát khỏi tình cảnh này và trong tương lai, cách ứng xử của một số quốc gia có thể trở thành nỗi ám ảnh đối với tất cả các quốc gia khác.
Trung Quốc đang thoát khỏi khủng hoảng. Có thể cần thêm thời gian và tham số để chứng minh cho điều này, nhưng một trong những bằng chứng thuyết phục nhất là chỉ số hoạt động kinh doanh (PMI), vốn phản ánh toàn bộ đường hướng phát triển kinh tế nói chung. Nếu chỉ số này trên 50 điểm thì nền kinh tế đang đi lên, thấp hơn mức đó có nghĩa là kinh tế đang đi xuống.
Trong tháng 2 vừa qua, do ảnh hưởng của Covid-19, PMI của Trung Quốc đã giảm xuống mức 35,7 điểm (từ mốc 50 điểm vào tháng 1/2020), nhưng sang tháng 3, chỉ số này đã tăng lên 52 điểm, cho thấy sự khởi sắc trở lại của ngành sản xuất Trung Quốc.
Nhưng dư âm của chiến thắng này còn chưa dứt thì một lưu ý đáng báo động đã được đưa ra: Trong bối cảnh thị trường bán hàng đa quốc gia và mạng lưới logistics toàn cầu sụp đổ, tăng trưởng sản xuất có thể đồng nghĩa với sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, dẫn tới một cuộc khủng hoảng dư thừa năng lực sản xuất.
Ngay cả sự phát triển mạnh mẽ của thị trường nội địa Trung Quốc cũng không thể bù đắp cho sự phát triển quá nóng này. Xét cho cùng, Trung Quốc vẫn là một quốc gia định hướng xuất khẩu.
Trái lại, Mỹ đang chuẩn bị cho kịch bản xấu hơn. Chỉ số PMI của Mỹ tụt giảm từ mốc 50,9 điểm vào tháng 1/2020 xuống mức 49,1 điểm vào tháng 3/2020 (nhưng vẫn cao hơn so với mốc dự báo là 45 điểm). Trong một cuộc phỏng vấn với kênh truyền hình CNN, nhà kinh tế học Kevin Hassett thừa nhận rằng GDP của Mỹ có thể sụt giảm chưa từng có trong quý II/2020 và tỷ lệ thất nghiệp có thể tăng lên đến mức 16%-20% trong tháng 6 tới.
Xu hướng của Trung Quốc và Mỹ dù đối lập nhau nhưng đều dẫn đến cùng một hệ quả trong nước, đó là làm nảy sinh một cuộc khủng hoảng xã hội. Cách đơn giản nhất để ngăn chặn cuộc khủng hoảng này là gây ra một cuộc xung đột quân sự ở bên ngoài - bài học mà bất kỳ nhà sử học nào cũng thuộc lòng. Tiền đề đã được đặt ra để cả hai quốc gia vận dụng sức mạnh vũ lực.
Trung Quốc là quốc gia của những ký ức lịch sử, mà trong số đó họ không bao giờ quên “mối nhục trăm năm” từ hai cuộc Chiến tranh Nha phiến hồi thế kỷ XIX. Khi đó, Trung Quốc bị tước đoạt hoàn toàn vùng ảnh hưởng địa chính trị ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nhưng ngay từ đầu những năm 2000, truyền thông Trung Quốc đã dự báo về 6 cuộc chiến tranh phục hồi lãnh thổ (nội hàm của chủ nghĩa phục quốc lãnh thổ) nhằm lấy lại những gì mà người Trung Quốc gọi là vùng đất đã mất trong thế kỷ XIX. Đó là cuộc chiến giành lại Đài Loan, các đảo ở Biển Đông, Nam Tây Tạng, đảo Điếu Ngư, đòi lại vùng ngoại Mông và khu vực Amur ngày nay của Nga.
Về lâu dài, điều này đồng nghĩa với việc Trung Quốc chuẩn bị cho các cuộc chiến tranh với Việt Nam, Philippines, Ấn Độ, Nhật Bản, Mông Cổ và Nga.
Ngay từ năm 2010, Trung Quốc đã tuyên bố chuyển từ phòng thủ ven bờ sang phòng thủ trên vùng biển mở. Và 10 năm trở lại đây, bất chấp sự phản đối của Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia, Trung Quốc đã xây dựng căn cứ trên quần đảo Trường Sa, từng bước kiểm soát Biển Đông trên thực tế và tự tin tiến về phía Tây, hướng đến Singapore, biển Andaman và Ấn Độ Dương.
Trong tương lai sẽ xảy ra không chỉ một cuộc xung đột khu vực, mà còn nổ ra một cuộc chiến địa kinh tế giành quyền kiểm soát eo biển Malacca, nơi 1/4 lượng trao đổi hàng hóa toàn thế giới đi qua.
Việc Mỹ cùng các đồng minh tiến hành các cuộc tập trận quân sự ở Biển Đông cho thấy khu vực này mặc nhiên được xác định là hướng hoạt động chính của các lực lượng vũ trang Mỹ.
Tiềm ẩn nguy cơ xung đột quân sự và lựa chọn của Nga
Khả năng xảy ra xung đột quân sự giữa hai cường quốc Mỹ-Trung sẽ gia tăng dựa trên giả định rằng quan hệ giữa hai nước xấu đi do xung đột thương mại đang diễn ra và các cáo buộc lẫn nhau liên quan đến đại dịch Covid-19.
Mỹ quan tâm sâu sắc tới việc ngăn chặn sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Việc đảm bảo quyền tự do đi lại trên các tuyến hàng hải ở Biển Đông không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế, mà còn cần thiết cho việc duy trì quy tắc tự do hàng hải toàn cầu.
Việc Trung Quốc kiểm soát tuyến đường biển này sẽ là bước đi quan trọng nhằm đẩy Mỹ ra khỏi khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, xây dựng ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc và tái cơ cấu toàn bộ khu vực theo hướng có lợi cho họ.
Trong khi đó, mục tiêu chính của chiến lược An ninh quốc gia Mỹ cũng như chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là ngăn chặn sự phát triển của các sự kiện theo chiều hướng như vậy. Việc Mỹ cùng các đồng minh tiến hành các cuộc tập trận quân sự ở khu vực này cho thấy Biển Đông mặc nhiên được xác định là hướng hoạt động chính của các lực lượng vũ trang Mỹ.
Tuy nhiên, việc thảo luận về một cuộc chiến thực sự giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn là quá sớm, bất luận giữa họ có xảy ra chiến tranh thương mại hay cuộc chiến thông tin hay không, khi Mỹ cáo buộc rằng Trung Quốc đã tạo ra một loại virus nhân tạo hay cung cấp thông tin sai lệch về diễn tiến của dịch bệnh ở nước này.
Dẫu sao cũng cần phải lưu ý rằng Mỹ và Trung Quốc đang sở hữu “bộ ba hạt nhân”. Và Mỹ hoàn toàn có đủ kinh nghiệm, khả năng ngoại giao và nguồn lực tài chính để biến Biển Đông thành một chiến trường thực sự giữa Bắc Kinh với Manila, Hà Nội, Kuala Lumpur hoặc Jakarta. Vì vậy, giới chuyên gia kiến nghị rằng các sự kiện ở Biển Đông cần được theo dõi sát sao.
Về phần Nga, mặc dù đứng cuối trong danh sách 6 cuộc chiến tranh phục hồi lãnh thổ của Trung Quốc như đã nói ở trên, nhưng trước mắt, Nga cần phải hiểu rằng trong cuộc đụng độ quân sự Mỹ-Trung, bất luận dưới hình thức nào, thì lựa chọn tốt nhất của Moscow là đóng vai trò chỗ dựa tài nguyên cho Bắc Kinh, đồng thời bình tĩnh theo dõi trận chiến của hai “con hổ” này.
Nga duy trì quan hệ hữu nghị với cả Trung Quốc lẫn các nước ASEAN, đặc biệt là với Việt Nam. Do đó, Moscow quan tâm đến việc giải quyết các tranh chấp ở khu vực Biển Đông trên cơ sở nguyên tắc không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thỏa hiệp giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, và sự tôn trọng lẫn nhau của tất cả các bên liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông.
Khác với quan điểm của Washington, Moscow không muốn căng thẳng leo thang giữa các đồng minh của họ ở khu vực. Do đó, Moscow có thể đóng vai trò trung gian nhằm tìm kiếm sự đồng thuận trong việc giải quyết xung đột.
Theo Baoquocte.vn